XỨ QUẢNG

Quảng Nam qua ca dao

“Ðất Quảng nam chưa mưa đã thấm
Rượu Hồng Ðào chưa uống đã say
Bạn về đừng ngủ gác tay
Nơi mô nghĩa nặng, ân đầy thì theo”.

Nói đến Quảng Nam người ta thường nghĩ đến vùng đất mở đầu cho cuộc Nam tiến từ đó làm bàn đạp tiến đến đồng bằng sông Cửu Long. Quảng Nam có các nhà cách mạng, khoa bảng gọi là đất “địa linh nhân kiệt”, “Ngũ Phụng Tề Phi”, góp phần vào xây dựng đất nước, đem lại điểm son lịch sử nước nhà, và cũng là vùng đất của thi ca, đóng góp vào lâu đài văn hóa dân tộc.

Trong dân gian ca dao truyền tụng qua câu hò giọng hát, phong phú và lãng mạn. Câu chuyện cô gái hái dâu tại Ðiện Bàn nhờ tâm hồn văn nghệ lời ca trữ tình, giúp cho nàng bước lên đỉnh cao của danh vọng:

Theo Ðại Nam Liệt truyện Tiền Biên, nhân chuyến công du của Sãi Vương vào thăm Quảng Nam, xem xét công việc của Trấn thủ Nguyễn Phúc Kỳ, có Nguyễn Phúc Lan con thứ của Sãi Vương sinh 13.8.1601 là cháu ngoại của Mạc Kính Điển. Đi du thuyền trên sông trong đêm gió mát trăng thanh, dừng thuyền bên gành Ðiện Châu thuộc quận Ðiện Bàn ngày nay. Thế Tử Lan thấy trăng đẹp bèn xuống một chiếc thuyền con sai tùy tùng chèo đi vừa câu cá vừa ngắm trăng. Thuyền Thế Tử đang lững lờ trôi giữa dòng bỗng nghe tiếng hát cất lên từ ven sông. Trong đêm vắng nghe giọng ca từ xa vọng lại:

Tai nghe Chúa ngự thuyền rồng
Thiếp thương phận thiếp mà hồng nắng mưa
Thuyền rồng Chúa ngự đi đâu
Thiếp thương phận Thiếp hái dâu một mình

Tiếng hát trong trẻo của người con gái giữa đêm trăng gợi trí tò mò của Thế Tử. Thế Tử Lan cho thuyền cập vào bờ nơi có tiếng hát. Đó là một bãi đất trồng dâu ở ven sông. Khi lên bờ, Thế Tử Lan bắt gặp một thiếu nữ thật đẹp đang ngồi ngắm trăng. Nguyễn Phúc Lan tìm đến với nàng, như hai “siêu tần số” tâm hồn gặp nhau, tình yêu đến thật tình cờ không hẹn ước, phải chăng đó là duyên nợ định mệnh an bài. Sãi Vương cho phép Nguyễn Phúc Lan làm lễ thành hôn với nàng “hái dâu” là Ðoàn Thị Ngọc con gái thứ 3 của quận công Ðoàn Công Nhạn quê Ðiện Bàn.

Thế Tử xin Chúa cho phép nàng được vào hầu trong phủ. Kể từ đó, bà trở thành phu nhân Thế Tử. Năm 1635-1648 Nguyễn Phúc Lan lên ngôi xưng là Công Thượng Vương, bà Ðoàn Thị Ngọc được Sãi Vương sủng ái đưa lên chánh phi, phong Hiếu Chiêu Hoàng Hậu. Bà trở thành Chính Phu Nhân. Bà là người công dung ngôn hạnh vẹn toàn nên rất được Chúa sủng ái cũng như được mọi người trong phủ kính yêu. Bà mất năm Tân Sửu (166, lăng bà tại Gò Cốc Hùng, núi Chiêm Sơn, Quảng Nam).

Ca dao là di sản văn hóa dân gian của dân tộc Việt Nam là những câu hát bình dân, thông thường trong sinh hoạt xã hội. Ðược truyền tụng từ đời nầy sang đời khác, ca dao mang mọi hình thái khác nhau theo thời gian, nói lên tình yêu của tuổi xuân nam nữ, trên cánh đồng lúa với trưa hè trong tiếng ve sầu bên cây phượng vĩ, hay nỗi buồn chia tay của tuổi học trò, diễn tả mọi sinh hoạt đời sống, với thiết tha hay tiếng thở dài vì tuyệt vọng, nói lên lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, cảnh tan thương bất mãn hay lòng hào hùng trong đấu tranh dành lại độc lập… Mỗi địa phương có những câu ca dao khác nhau.

Người Quảng Nam sớm tiếp xúc văn minh ngoại quốc, từ thế kỷ thứ 17. Trung Hoa có nền văn hóa lâu đời, ngược lại Tây Phương có tài về khoa học kỹ nghệ, bởi thế không có gì tuyệt đối với việc tiếp xúc học hỏi của người dân Quảng Nam. Tổ tiên khi xưa đặt chân đến nhận vùng đất Chiêm Thành với bản tính can đảm lúc đến lập nghiệp trong vùng đất mới khai phá. Thích canh tân tiến bộ trong tình thần dân chủ, cởi mở thích phát biểu ý kiến và phải có lý luận rõ ràng. Ai nói điều gì mơ hồ không có dẫn chứng đúng thường bị cãi lại ngay. Cãi trở nên truyền thống của người Quảng Nam, bởi thế có câu vè nói về cá tính trong sinh hoạt xã hội:

Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay lo
Bình Ðịnh nằm co, Thừa Thiên ăn hết…

Ðời sống gia đình, tình yêu mộc mạc của vợ hiền đảm đang việc nhà, dành thì giờ cho chồng yên chí học hành đỗ đạt ra giúp đời, hay hai người chỉ mới yêu nhau nhưng chờ ngày bái tổ vinh qui. Ngày xưa, các thí sinh Quảng Nam, phải vượt đèo Hải Vân ra Huế thi trong các kỳ thi do triều đình tổ chức, vác lều chỏng ứng thí, nhà giàu đi ngựa, nghèo thì đi bộ có người gánh phụ hành trang đường xa cách trở.

Các chàng trai xứ Quảng ra Huế thi, thấy nàng gái Huế mặc áo dài, mái tóc thề tung bay trong gió nhẹ của sông Hương, đi qua cầu Trường Tiền sáu vày mười hai nhịp… khác với hình ảnh người yêu hay vợ hiền ở quê nhà nên cái nhìn hoá… ngẩn ngơ:

Học trò trong Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế chân đi không đành.

Sau nầy trai Quảng Nam ra Huế học đại học không còn ngẩn ngơ, đến nỗi đi không đành… như các cụ ngày xưa học xong đại học, đi làm việc khắp nơi, không giới hạn làm quan ở triều đình Huế. Những thành phố Hội An, Ðà Nẵng,Tam Kỳ trở nên sầm uất, các nàng gái xứ Quảng cũng xinh đẹp, văn minh dịu dàng… nên các chàng sửa lại chữ “thấy” ra chữ “mấy”:

Học trò trong Quảng ra thi
Mấy cô gái Huế chân đi không đành.

Tình yêu lòng thủy chung thường nhắc đến, dù học hành đỗ đạt làm quan, đừng quên tình yêu thuở ban đầu lưu luyến ấy…

Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Cho anh đọc sách cho nàng quay tơ
Quay tơ vẫn giữ mối tơ,
Dù năm bảy mối vẫn chờ mối anh.

Non non, nước nước khơi chừng
Ái ân đôi chữ xin đừng quên nhau
Tình sâu mong trả nghĩa đền
Ðừng vui chốn khác mà quên chốn nầy

Vợ chồng quê ngày ngày bận rộn việc ruộng đồng, ban đêm còn tranh thủ thời gian làm thêm việc nhà, không mong ước gì cao xa ngoài lòng chung thủy:

Ðêm hè gió mát, trăng thanh
Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp chừng
Lạt chẳng mỏng sao thừng được tốt
Duyên đôi ta đã trót cùng nhau
Trăm năm thề những bạc đầu
Chớ ham phú quí đi cầu trăng hoa.

Tình yêu khép kín trong lễ giáo gia đình, “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”. Nhưng tình yêu của phố Hội An cũng lãng mạn dành cho thi nhân và khách vãng lai:

Ai đi phố Hội, Chùa Cầu
Ðể thương , để nhớ, để sầu cho ai,
Ðể sầu cho khách vãng lai,
Ðể thương để nhớ cho ai chịu sầu

Hội An nơi hẹn hò của các cặp nhân tình trong các mùa làm việc chung với nhau:

Thương nhau chớ quá e dè,
Hẹn nhau gặp lại bến Cầu Rô Be.
Thiếp nói thì chàng phải nghe
Thức khuya, dậy sớm, làm chè10 ngày 12 xu
Mãn mùa chè, nệm cuốn sàn treo
Ta về, bỏ bạn, cheo leo một mình,
Bạn ơi, bạn chớ phiền tình,
Mùa ni không gặp, xin hẹn cùng mùa sau
Lạy trời, mưa xuống cho mau
Chè kia ra đọt, trước sau cũng gặp chàng

Tình yêu có thể vượt không gian và thời gian không còn ngăn sông cách núi dù ở đâu cũng có thể tìm đến, ngày xưa thiếu phương tiện giao thông, phải vượt núi trèo đèo tìm đến với người yêu trong đời sống mộc mạc của hoa đồng cỏ nội, hay trên đồi sim tím:

Ðói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người yêu (thương)

Hay:

Thương nhau , mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua

Khoảng cách không thể so sánh với tình yêu, đường xa cách trở có thể thâu gần lại:

Rằng xa: cửa ngõ cũng xa
Rằng gần: Vĩnh Ðiện, La Qua cũng gần

Thân phận con gái đi lấy chồng, nhưng hình ảnh sinh hoạt trong gia đình không thể quên dù được sống hạnh phúc bên chồng, nhưng đôi lúc chạnh lòng nhớ thương cha mẹ:

Chiều chiều ra đúng ngỏ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Chiều chiều mây phủ ải vân
Chim kêu gành đá, gẫm thân lại buồn

Hay:

Chiều chiều mây phủ Sơn Trà
Lòng ta thương bạn, nước mắt và trộn cơm

Người Quảng Nam tính tình cương trực, nói thẳng, không giấu giếm nỗi lòng, trong tình yêu gia đình, xã hội đạo làm người luôn được tuyệt đối tôn trọng:

Ðối với ai ơn trọng , nghĩa dày
Một hột cơm cũng nhớ
Một gáo nước đầy vẫn chưa quên

Người chồng vì bổn phận đi xa, vợ hiền lo gánh vác việc nhà nuôi con phụng dưỡng mẹ già, giữ lòng thủy chung, mong ước ngày đoàn tụ dưới mái ấn gia đình để con có mẹ có cha, Truyền thống đàn bà Việt Nam hy sinh giúp chồng mong làm nên sự nghiệp, vợ khôn ngoan làm quan cho chồng tiễn đưa chồng ra đi không phải là những nụ hôn nồng nàn, nhưng là lời nhắc nhủ:

Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ
Lầm than bao quản muối dưa
Anh đi anh liệu chen chân với đời

Hoặc:

Ðứng bên ni sông, ngó qua bên kia sông
Thấy nước xanh như tàu lá,
Ðứng bên ni Hà Thân, ngó qua Hàn
Thấy phố xá nghinh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn,
Ðào sông Cù Nhĩ, tìm vàng Bồng Miêu.
Dặn tấm lòng, ai dỗ cũng đừng xiêu,
Ở nuôi thầy mẹ, sớm chiều cũng có anh

Nghe các địa danh Tý Sé, Hòn Kẻm, Ðá Dừng nhưng chúng ta chưa một lần bước chân đến đó. Xem lại bản đồ Quảng Nam địa danh trên nằm trên sông Thu Bồn phát xuất từ trên nguồn chảy qua giữa quận Quế Sơn và Ðại Lộc, nhưng thưở xa xưa có thể người ta đến đó làm việc, trên sông dưới nước với cảnh khỉ ho cò gáy, nhớ về mẹ là nhớ về cuội nguồn dân tộc:

Ngó lên Hòn Kẻm, Ðá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi

Công ơn sinh thành của cha mẹ cao như trời, rộng như biển, con cái có lòng hiếu thảo đó là nguồn an ủi đối với cha mẹ lúc tuổi già. Nhắc lại tình mẫu tử cao quý, qua kinh nghiệm cuộc sống nhắn gởi ai còn cha mẹ nên giữ lòng hiếu thảo.

Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Người mẹ hiền thường răng dạy con gái qua ca dao như thứ luân lý thực hành:

Mình là con gái trong nhà
Hình dung yểu điệu nết na dịu dàng
Khi ăn khi nói chững chàng
Khi ngồi khi đứng bỉ bàng dung nghi

Sống với quê nhà bên lũy tre xanh, trên con đường làng bé nhỏ, hay phải đi xa một phương trời nào, khó có thể quên được quê hương xứ Quảng, kỷ niệm gắn bó cuộc đời. Người Quảng sau này định cư khắp nơi trên thế giới, dù hội nhập vào văn minh xứ người nhưng nỗi lòng người viễn xứ vẫn canh cánh bên lòng niềm nhớ thương về quê mẹ, mỗi địa phương mang một đặc thù riêng:

Ai đi cách trở sơn khê
Nhớ tô mì Quảng, tình quê mặn mồng
Hội An đất hẹp, người đông
Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu
Hội An bán gấm, bán điều
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành
Chiêm Sơn là lụa mỹ miều
Sớm mai mắc cưởi, chiều chiều bán tơ
Chồng em là lái buôn tiêu
Ði lên đi xuống Trà Nhiêu, Kim Bồng

Dãy Trường Sơn chạy dọc theo bờ bể từ Nam Ô cho tới Chu Lai phần lớn dân số sống về nông nghiệp và ngư phủ cùng nhau phát triển kinh tế. Các huyện trên nguồn như Tiên Phước, Quế Sơn… muốn ăn cá phải mua cá hấp chín, bán vào các buổi chợ sớm, các loại cá người miền biển gánh lên nguồn đổi lấy ngũ cốc, tùy theo các mùa, nhưng loại cá chuồn, người ta thường làm thính hay hấp, cá chuồn nấu với mít non một món ăn ngon tuyệt vời:

Ai về nhắn với ngọn nguồn
Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên

Trái bòn bon bé nhỏ nhưng có hương vị ngọt, ngày xưa vua Gia Long từng hái ăn khi vượt núi băng ngàn để chống lại nhà Tây Sơn. Thống nhất Sơn Hà 1802, đặt tên trái bòn bon là “Nam Trân”, trái măng cụt tại miền Nam tên là “Giáng Châu”, để nhớ lại những lúc thiếu lương thực thì cả vua lẫn quân lính thường “đỡ lòng” bằng các trái cây này:

Trái bòn bon trong tròn ngoài méo
Trái thầu dầu trong héo ngoài tươi
Em thương anh ít nói ít cười
Ôm duyên ngồi đợi chím mười con trăng

Vùng biển cát trắng Nam Ô nằm dưới chân đèo Hải Vân, sản xuất nước mắn ngon nổi tiếng không thua gì Phú Quốc hay Phan Thiết. Chúng ta ít nhất một lần ăn với dưa cải muối với nước mắm Nam Ô:

Nói cho lắm cũng nước mắm dưa cải
Nói cho phải cũng dưa cải nước mắm

Nhà thơ xứ Quảng Tường Linh có những vần thơ:

Ðêm Ðà Nẵng vọng về cơn gió biển
Bún chợ Chùa thương nước mắm Nam Ô

Huyện Hòa Vang giáp Ðà Nẵng có bến xe Ðò Xu, ngả ba Hòa Cầm huyện lỵ tại Cẩm Lệ nơi sản xuất nem. Tôi không hút thuốc, nhưng nghe người ta thường nói nơi nầy nổi tiếng một vùng trồng thuốc thơm ngon, gọi là thuốc lá Cẩm Lệ các vùng Thanh Quýt cũng trồng cau, thuốc lá được các ghe thương gia tới mua bán…

Tơ cau thuốc lá đầy ghe
Hội An buôn bán tiếng nghe xa gần.

Hội An làm bánh tổ một đặc sản, vùng Tiên Ðoả từ Hương An trở vào cho đến quận Thăng Bình vùng cát trắng phau thích hợp cho việc trồng khoai lang:

Nem chả Hòa Vang
Bánh tổ Hội An
Khoai lang Tiên Ðỏa
Thơm rượu Tam Kỳ

Huyện Trà My tại Quảng Nam trồng quế vỏ nhiều dầu, phẩm chất cao đặc sản nơi nổi tiếng các nơi khác trồng nhưng có thể xa khí hậu phong thổ chất lượng kém, bởi vậy khó nơi nào sánh bằng:

Quế Trà My thứ cay thứ ngọt
Bởi anh thợ rừng mới lọt tay anh
Phàn du, bạch chỉ rành rành
Cân tiểu ly mới xứng, ngọc liên thành mới cân

Quế, loại sản phẩm có giá trị như yến ở cù Lao Chàm nổi tiếng thơm ngon và đắc tiền:

Ðầy hàng tháng Tám ngát mùi hương
Sửa quế người xem khá rộn ràng
Số chở hàng năm khôn kể xiết,
Bán xong lại đến lấy thêm hàng.

Lời ru ngọt ngào của mẹ hiền, tiếng ru à ời ngọt ngào âm thanh kéo dài, trong những trưa hè nắng gắt, đem lại cho con giấc ngủ bình yên, liên khúc ca dao trữ tình như lời nhắn nhủ, lớn lên phải khôn ngoan vào đời. Nhờ truyền khẩu nên các bà thuộc lòng các câu ca dao kết hợp lại thành khúc hát ru con:

Ru con con thét cho muồi
Ðể mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh
(Tùy theo mỗi địa phương có thể thay đổi tên chợ)

Công cha nghĩa mẹ chớ quên
Ơn vua lộc nước mong đền con ơi
Như vầy mới gọi rằng trai
Trên lo nghĩa Chúa, dưới mài thảo thân.

Quảng Nam có những trang sử oai hùng và bi đát, qua các cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp.Tình thần yêu nước hy sinh của sĩ phu và những người dân quê, họ sống trên cánh đồng lúa bờ dâu, hiền từ chất phát không hận thù. Dưới thời Pháp thuộc bị bóc lột đến tận xương tủy, nên mọi người cùng nắm tay nhau lên đường đấu tranh. Phong trào đấu tranh xin xâu giảm thuế phát xuất tại Quảng Nam đánh dấu một kỷ nguyên mới dưới thời nô lệ:

Ðất Quảng Nam từ năm bính ngọ (1906)
Xâu ngũ nhật, công sưu công ích, đường trường làm tột núi cao
Thuế bách phân gia ngũ gia tam,đủ ngón vét từng xu nhỏ
Mãi tới xuân nầy (1908) cực đà hết chỗ,
Ra Tết trời làm tai biến, hạn hán tiêu khô
Nhiều nơi đất bỏ hoang dân tình đói khổ..

Làn sóng đấu tranh nổi lên toàn tỉnh Quảng Nam sau đó kéo dài các tỉnh miền Trung.

Ðời ông cho tới đời cha
Ðời nào cực khổ như ta đời nầy
Ngoài đồng cắm cọc giăng giây
Vườn nhà đóng thuế, vợ gầy con khô.
Ðời xưa thuế một quan năm
Ðời nay thuế lại hai đồng bốn giác
Con tay bồng tay dắt
Vợ tay đỡ tay mang
Vui chi mà hát mà mừng
Mua ngày mà ở cầm chừng với Tây
Từ ngày Tây chiếm Ðế đô
Xâu cao thuế nặng , biết chừng mô hỡi trời!
Còn lo một nỗi khổ đời
Quan trên ỷ thế nặng lời hiếp dân.
(…..)
Kể từ Ðồn Nhất kể vô
Liên Chiểu, Thủy Tú, Nam Ô, xuống Hàn
Hà Thân, Quán Cái, Mân Quang
Miếu Bông, Cẩm Lệ là đàng vô ra
Ngó lên chợ Tổng bao xa
Bước qua Phú Thượng, Ðại La, Cồn Dầu
Cẩm Sa, Chợ Vải, Câu Lâu
Ngó lên đường cá, thấy cầu Giáp Năm
Bây chừ, thiếp viếng, chàng thăm,
Ở cho trọn nghĩa, cắn tăm nằm chờ.

Thời tiết các năm ấy hạn hán bị mất mùa, thu hoạch ngũ cốc chưa đủ sống, nhưng bọn sai nha thâu thuế lấy xâu không nương tay, chỉ muốn thu tiền cho đầy túi dâng cho bọn thực dân hưởng thụ, bắt dân phu đi làm đường đào mỏ… sống chết mặc bay. Người dân Quảng Nam không chịu đựng cảnh người bóc lột người của thời nô lệ, từ đó họ đã biến đau thương thành hành động:

Tháng giêng cho chí tháng hai
Con dân áo rách quần sài đi ra
Mười lăm cho đến ông già
Cơm đùm, ruột tượng, xuống tòa lãnh ban
Chức sắc cho chí viên quan
Làm đơn kêu gọi các làng xin xâu
(…..)
Kể từ cầu Ông Bộ kể ra
Cây Trâm, Trà Lý, bước qua Bàu Bàu
Tam Kỳ, chợ Vạn bao lâu,
Ngó qua đường cái, thấy lầu Ông Tây
Chiên Ðàn, Chợ Mới là đây,
Kế Xuyên mua bán, đông tây rộn ràng
Hà Lam gần sát Phù Ðàng,
Phía ngoài bãi cát, Hương An nằm dài,
Cầu cho gái sắc, trai tài.
Ðồng tâm xây dựng, tương lai huy hoàng

Thực dân Pháp và tay sai đàn áp các cuộc biểu tình xin xâu kháng thuế, nhiều người bị kết án tử hình, trong đó có Ông Ích Ðường cháu nội Ông Ích Kiêm bị tử hình ở Túy Loan. Ông trùm Thuyết bị chém vì hô những tiếng lớn lên án Trần Tuệ chuyên ăn hối lộ làm cho đề đốc Trần Tuệ là tay sai đắc lực với Pháp sợ quá hộc máu mà chết. Tiếng hô uất hận của dân tộc lầm than, đói khổ bị đè nén lâu ngày, tiếng hét được mọi người hưởng ứng để đánh đổ bạo quyền và tay sai. Nên ca dao và vè đấu tranh lưu truyền mãi mãi:

Cậu Ðường mười tám tuổi đầu
Dẫn dân công ích xin xâu dưới tòa
(…..)
Bắt anh trùm Thuyết dẫn ra,
Dẫn ra dân tưởng quan tha cho về
Chém anh trùm Thuyết gớm ghê
Gươm đao âm phủ ba bốn bề cách xa

Các Phong trào chống thực dân dù bị đánh dẹp, không tránh khỏi cảnh bất công trả thù gông xiềng tù đày bắt bớ, chém đầu, máu của dân tộc Việt Nam đổ ra khá nhiều, nói riêng tại Quảng Nam phong trào trên làm cho chính sách của bọn thực dân phải chùn bước. Phan Châu Trinh (1872-1925) Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), Nguyễn Thành (1863-19…), Trần Quý Cáp(1870-1908)… đều bị bắt cùng nhiều người khác đày ra Côn Đảo.

Ca dao mang chúng ta trở về nơi xa mù quá khứ, hoài nhớ lại kỷ niệm của tuổi thơ được nghe tiếng hát mẹ hiền… Kỷ niệm như đang len lỏi vào hồn, như khơi dậy nỗi niềm xa xứ , nhắc nhở chúng ta đừng quên cội nguồn. đừng quên bổn phận với quê hương …

Nguyễn Quý Đại

Tháng Mười Hai 11, 2008 - Posted by | 3. Văn hoá

2 bình luận »

  1. Gửi tác giả bài viết.
    Về bốn câu thơ “Ðất Quảng nam chưa mưa đã thấm
    Rượu Hồng Ðào chưa uống đã say
    Bạn về đừng ngủ gác tay
    Nơi mô nghĩa nặng, ân đầy thì theo”, bốn câu thơ này chưa chính xác, xin góp ý một bản ca dao của 4 câu này theo nguyên tác như sau:
    Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm,
    Rượu Hồng đào chưa nhấm đà say.
    Chứ bậu về nằm nghĩ gác tay,
    Nơi nao ân trọng, nghĩa dày bằng qua.
    ( Bài ca dao này tôi từng được chính các cụ bà ngày xưa hát cho nghe,và trong cuốc ” CA DAO DÂN CA XỨ QUẢNG” nhà xuất bản Văn nghệ in năm 1980, có đề cập bài này. Hiện sách này còn lưu trữ tại thư viện Huyện Điện Bàn và các trường THPT của tỉnh Quảng Nam.

    Bình luận bởi NGUYEN HOANG NGUYEN | Tháng Hai 28, 2012 | Trả lời

  2. of course like your web site however you have to check the spelling on several of your posts. Several of them are rife with spelling issues and I to find it very troublesome to inform the truth nevertheless I’ll definitely come again again.

    Bình luận bởi đặc sản xứ huế | Tháng Sáu 1, 2012 | Trả lời


Bình luận về bài viết này